Thiết kế web
  • TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ

    Tranh dân gian Đông Hồ là một trong những nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam. Bố cục, khuôn hình và màu sắc ở loại tranh này rất độc đáo. Với những chất liệu hoàn toàn tự nhiên, tranh Đông Hồ có màu sắc gần gũi, ấm áp rất đặc biệt mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có.

    Treo tranh trong ngày tết đã trở thành một thú chơi tao nhã, một phong tục đẹp của người nông dân Việt Nam xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, các gia đình dù giàu hay nghèo, ngoài bánh chưng, thịt mỡ dưa hành cũng không thể thiếu câu đối đỏ cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được dán lên tường nhà cho không khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Trong các loại tranh chơi tết của vùng châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh những dòng tranh như Kim Hoàng ở Hà Tây, Hàng Trống ở Hà Nội, có lẽ tranh dân gian Đông Hồ là điển hình hơn cả. 

    Để tìm hiểu về loại hình văn hóa dân gian độc đáo này, trước hết chúng ta cần biết rõ khái quát tranh dân gian Đông Hồ là gì, nguồn gốc và cách để tạo ra dòng tranh này.

    Tranh dân gian Đông Hồ

    1. Nguồn gốc tranh dân gian Đông Hồ?

    Tranh dân gian Đông Hồ hay nói đầy đủ hơn là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ ra đời từ khoảng thế kỷ XVII, tại làng Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, một vùng đất trù phú, nông nghiệp phát triển, đời sống văn hoá cao… tất cả tạo thành cái nôi cho một dòng tranh chân quê, đậm đà chất dân tộc.

    Trước kia tranh Đông Hồ được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Thời kì cực thịnh của làng tranh là vào khoảng cuối thế kỉ 19 đến những năm 40 của thế kỉ 20. Lúc ấy, trong làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên, cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp…

    Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan chuyên môn tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học cho Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ để đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể.

    Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen... cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân Nghĩa, Vinh hoa, Phú Quý, Lợn đàn, Gà đàn...

    Cái hấp dẫn của tranh dân gian Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, ước mong vinh hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc. 

    Tranh dân gian Đông Hồ

    2. Giấy in, màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ

    Ngoài các đặc điểm về đường nét và bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in.

    Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó.

    Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp.

    Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang), v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh Đông Hồ chỉ dùng tới 4 màu mà thôi.

    Ông Nguyễn Đăng Chế - một nghệ nhân nổi tiếng của dòng tranh dân gian Đông Hồ đã giải thích về ý nghĩa của việc dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh đánh ghen để lột tả được cái nóng giận bực bội ngột ngạt của không khí lúc đó, nền màu vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu hồng nhạt cho tranh làng quê yên bình … Tranh Ðông Hồ có từ thời Lê, xuất xứ từ làng Đông Hồ, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc (cũ). Ngày xưa chợ tranh họp 5 phiên trong tháng duy nhất của năm - tháng chạp vào các ngày 6,11,16,21,26. Vào thế kỷ XVI tranh Đông Hồ xuất hiện nhưng không ai thống kê hết được có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết gồm có 5 loại là: Tranh thờ, Tranh lịch sử, Tranh chúc tụng, Tranh sinh hoạt và Truyện tranh.

    Tranh dân gian Đông Hồ

    Tranh dân gian Đông Hồ

    3. Ý nghĩa của những tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ

    Tranh tết Đông Hồ không phải là sự minh họa về ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự gửi gắm, là lời chúc phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm phát tài, phát lộc, bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. 

    Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối với cuộc sống. 

    4. Cách thức để tạo ra một bức tranh dân gian Đông Hồ

    Để hoàn thành một bức tranh, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận và thực hiện nhiều giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quét điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 4 màu thì 4 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ như thế, từng lớp, từng lớp dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh các hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân…

    Tuy tranh Đông Hồ được sản xuất theo phương thức đại trà, mỗi mẫu tranh có khi được in ra cả hàng nghìn, hàng vạn bản. Thế nhưng, tất cả các khâu làm tranh đều được làm thủ công hoàn toàn.Vì thế, mỗi bức tranh đều thấm đẫm tình cảm và sự chăm chút của những nghệ nhân.

    Đầu tiên là khâu vẽ mẫu. Việc sáng tác tranh là do một người đảm nhận, nhưng được mọi người tham gia bình luận, góp ý để sửa lại cho phù hợp hơn. Vì vậy, cho đến khi hoàn thành và đưa vào sử dụng thì nó đã trở thành sáng tác chung của tập thể.

    Mẫu vẽ xong được khắc lên ván in.Đây là khâu rất quan trọng và nó có ý nghĩa quyết định đến giá trị tác phẩm.Thông thường mỗi ván chỉ in được một màu. Do đó, số ván cần phải khắc bằng chính số màu trong tranh.

    Sau khi hoàn tất việc khắc ván là công đoạn in tranh. Giấy dùng in tranh là loại giấy dó (làm từ vỏ cây dó) với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Loại giấy này được quét lên một lớp hồ điệp để tạo nét sáng óng ánh đặc thù.

    Tranh in hoàn toàn bằng khắc ván, không dùng bút để vẽ hay tô màu. Khi in, người ta dùng ván in đã phết màu lên giấy điệp. Mỗi lần in một màu, các màu phải khít với nhau. Tranh dân gian Đông Hồ là nghệ thuật in tranh thủ công, bức tranh hoàn thành là do sự ghép lại của các mảng màu theo đúng trình tự nhất định.

    Tranh dân gian Đông Hồ

    5. Những làng nghề truyền thống - nơi tạo ra những tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ 

    Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.

    Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:

    Hỡi cô thắt lưng bao xanh
    Có về làng Mái với anh thì về
    Làng Mái có lịch có lề
    Có sông tắm mát có nghề làm tranh.

     

    Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.

    Cho đến nay chỉ còn hai dòng họ vẫn giữ được nghề truyền thống là dòng họ của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam. Từ những năm 90, khi người dân làng tranh bán hết bản khắc gỗ để mưu sinh, hoặc để mất mát, thất lạc, có khi còn bị mang ra chẻ làm củi đun hoặc che chuồng gà, thì Nghệ nhân Đăng Chế đã “tỉnh táo” thu mua bằng hết. Cho đến nay, ông vẫn còn lưu giữ được gần 100 bản khắc cổ và phục chế được hàng trăm bản khắc khác.

    Tranh dân gian Đông Hồ

     

    Lưu ý: Việc sao chép, copy toàn bộ hoặc một phần bài viết từ website này, dưới mọi hình thức, mà không có sự đồng ý của chúng tôi là vi phạm bản quyền.

     

    Hãy đến với tranh thêu tay Đà Lạt để cảm nhận sự khác biệt

    ♦ Nguyên liệu thêu: chỉ tơ tằm, chỉ DMC Pháp, chỉ bóng

    ♦ Nghệ nhân thêu: Đà Lạt - Việt Nam

    ♦ Độ bền tranh: cao

    ♦ Tranh thêu theo mọi yêu cầu của khách hàng

    ♦ Giao và treo tranh tận nơi cho quý khách

    TRANH THÊU ĐÀ LẠT

    Website: http://tranhtheudalat.net/

    Điện thoại liên hệ: 0931 427 817
    48a đường Dương Thị Mười, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh (Chung cư Hưng Ngân)

     

    Ngày đăng: 14-10-2017 3,562 lượt xem
DMCA.com Protection Status